Thứ Sáu, 16 tháng 7, 2010

CÁC MÓN ĂN ĐẶC TRƯNG CỦA XỨ DỪA BẾN TRE





BLOG CỦA NHÓM
CHỦ ĐỀ:
ẨM THỰC XỨ DỪA BẾN TRE

I- VIDEO CLIP:
1- Sinh tố dâu dừa:

http://www.mediafire.com/?85q89x80955b8hu

2- Ốc len xào dừa:

http://www.mediafire.com/?g9ltqpf3m61yq0c

3- T rang thịt lợn ba chỉ:

http://www.mediafire.com/?taru7iiob7fvjbp

II- FILE AUDIO:
1- Bánh tráng Mỹ Lồng- Bánh phồng Sơn Đốc:

http://www.mediafire.com/?941fx9ifoa97wv1

2- Bánh dừa Giồng Luông- Thạnh Phú- Bến Tre

http://www.mediafire.com/?o19w66knfbakbk6

3- Rượu Phú Lễ- Ba Tri- Bến Tre

http://www.mediafire.com/?of9pe68m94g65ao

III- FILE IMAGE:

Trái cây Bến Tre
http://www.mediafire.com/?g9ds5bpmt423bsw

IV- FILE WORD
1- Bánh tét xứ dừa


Ngày xưa bánh tét chỉ gói vào dịp tết để cúng ông bà tổ tiên, nhớ về cội nguồn, nhắc nhở công lao khó nhọc của nghề nông vất vả. Bánh tét có đặc tính dễ bảo quản, có thể đem theo bên mình những lúc đi xa, có thể để dành khi giặc giã bằng cách giấu trong lu, trong giếng nước, ém xuống mương vườn mười ngày nửa tháng vớt lên ăn vẫn ngon như thường. Ngày nay, mặc cho mì ăn liền, cơm sấy « làm mưa làm gió », bánh tét vẫn ung dung góp mặt suốt bốn mùa.

Ở Nam bộ có nhiều loại bánh tét, như vùng Bình Dương, Tây Ninh có bánh tét trộn đậu phộng luộc; Đồng Nai có bánh tét hột điều; Sóc Trăng có bánh tét cốm dẹp; Tiền Giang có bánh tét nếp than; Sài Gòn có bánh tét nhân thập cẩm (ngoài đậu xanh còn có trứng, tôm khô, lạp xưởng, hột sen...); Ba Tri (Bến Tre) có bánh tét bắp non cũng rất hấp dẫn.

Phụ nữ xứ dừa đã vận dụng một cách tinh tế, khéo léo và hợp lý những sản vật, nguyên liệu sẵn có để chế biến thành những món ăn độc đáo, mang hương vị riêng, trở thành đặc sản của quê dừa. Bánh tét trở thành hàng hóa được bán quanh năm ở các chợ lớn, nhỏ trong tỉnh.


Bánh tét Bến Tre có đặc điểm gạo nếp thường được xào nước cốt dừa. Bánh có nhiều loại như bánh tét mặn người ta để nhân đậu xanh, thịt mỡ hay ba rọi, ăn với củ cải trắng, đỏ ngâm nước mắm đường (một dạng dưa góp) rất ngon. Bánh tét ngọt có loại nhân chuối, có loại trộn đậu đỏ, đậu đen. Một trong những món ăn quen thuộc nhưng không kém phần độc đáo là món bánh tét chữ được làm bởi bàn tay khéo léo của những người phụ nữ đảm đang. Nét độc đáo của loại bánh này là khi cắt bánh từng khoanh xếp liền kề nhau sẽ hiện thành chữ Phước, Lộc, Thọ, chữ Vạn, chữ May hay chữ Phúc ở giữa, tùy sự gửi gắm tình cảm của người gói bánh.

Bánh tét được gói với nhiều kích cỡ, loại bé nhất chỉ bằng ngón tay út buộc thành từng chục, rất xinh xắn, dễ thương, ngắm trước ăn sau. Loại trung bình bằng cổ tay dành cho người dùng vừa đủ một bữa điểm tâm. Loại lớn đường kính gần cả tấc, dài khoảng ba tấc thường để làm quà biếu cho trang trọng vừa để khẳng định tay nghề gói bánh «bự» mà không bị «nín» (nín có nghĩa là còn có chỗ chưa chín) mới là cao thủ.


Bánh tét có nhân chữ bên trong là một nghệ thuật đạt tới một trình độ văn hóa rất cao mà không phải ai cũng làm được. Ngoài cái tài khéo của người làm bánh, người được tặng bánh còn nhận được cả một giá trị văn hóa ở những lời chúc mừng. Có thể coi đây là một kiểu trang trí độc đáo ở xứ dừa Bến Tre, không thua kém gì cách dùng kem tạo nên chữ chúc mừng sinh nhật hay các hình thức trang trí trên bề mặt của những chiếc bánh ga - tô trong văn minh ăn uống của Tây phương. Tiếc rằng truyền thống văn hóa này có nguy cơ bị quên lãng vì không còn mấy người biết cách làm loại bánh này. Thiết nghĩ chúng ta cần có biện pháp để giữ gìn cách làm này vì nó là một trong những giá trị văn hóa phi vật thể đặc sắc của Nam bộ nói chung và xứ dừa nói riêng.


Năm sắp hết, bất cứ ai cũng không thể quên được kỷ niệm thuở ấu thơ vào những chiều 30 trong cái se lạnh của tàn đông, lũ trẻ quây quần bên bếp lửa, chuyện trò ấm áp, vừa chụm lửa «lập công» để chờ đợi nồi bánh chín, để được ăn những cái bánh «đầu thừa đuôi thẹo» có khi chỉ lớn hơn ngón chân cái. Vậy thôi mà đâu dễ gì quên.

Chẳng hiểu sao bánh dừa bánh ú thường được buộc thành xâu, thành chùm, thành từng chục... mà bánh tét lại được buộc thành đôi. Có lẽ không chỉ đơn giản là chỉ để treo lên hay còn một ý nghĩa nào khác chẳng hạn người xưa muốn nói rằng trong đời ai cũng cần có đôi có bạn. Ai muốn gửi một lời tỏ tình hay một lời chúc lành năm mới, hãy gửi một nhành mai kèm với đôi đòn bánh tét chữ đến người thân yêu.


KẸO DỪA BẾN TRE



Kẹo dừa Bến Tre vừa là một đặc sản ẩm thực, vừa là một nghề thủ công truyền thống mang đậm văn hóa xứ sở. Đất nước ta có nhiều vùng trồng dừa nhưng Bến Tre chính là nơi ra đời và phát triển nghệ thuật chế biến kẹo dừa. Các nghệ nhân ẩm thực Bến Tre đã không ngừng kế thừa nghệ thuật làm kẹo dân gian này để nâng lên thành một ngành hàng chủ lực đem lại lợi ích kinh tế và quảng bá văn hóa ẩm thực Bến Tre trong và ngoài nước.


Ngày xưa người Bến Tre làm kẹo dừa để ăn trong gia đình hay để biếu bè bạn, người thân trong những dịp lễ tết. Sau đó, nghệ thuật làm kẹo dừa đã không ngừng được cải tiến và đã trở thành một sản phẩm truyền thống đặc biệt của Bến Tre.


Kẹo được đỗ vào khuôn để cắt.

Kẹo dừa Bến Tre có nguồn gốc từ huyện Mỏ Cày. Theo các tư liệu sưu tầm được thì người đầu tiên làm ra kẹo là bà Nguyễn Thị Ngọc, sinh năm 1914, cư ngụ tại khu phố 1, thị trấn Mỏ Cày.

Nguyên liệu làm kẹo dừa gồm: nước cốt dừa, mạch nha, đường (trước kia người ta dùng đường thùng nhưng ngày nay dùng đường cát). Mạch nha được chắt lọc từ chất đường của hạt nếp khi được ủ cho lên mầm.

Muốn làm kẹo ngon, khâu chọn nguyên liệu rất quan trọng. Thóc nếp dùng để nấu mạch nha phải là nếp tốt, hạt to chín đều. Để nẩy mầm thóc phải được tưới bằng nước mưa sạch rồi đem nấu lấy mạch nha. Thợ nấu mạch nha phải là thợ lành nghề điêu luyện. Dừa khô lựa trái “rám vàng” mới vừa hái xuống. Vì trái dừa mới bắt đầu khô này có hương vị đặc trưng, nước cốt có độ ngọt thanh. Đường nấu kẹo phải chọn loại đường mới, có màu vàng tươi.


Xưa kia người ta cho tất cả nguyên liệu vào bể chứa trộn đều sau đó đun sôi rồi cho vào thạp ủ (chiều làm kẹo, sáng nấu bột). Trong sản xuất đại trà hiện nay, sau khi pha chế nguyên liệu xong người ta cho vào chảo, đun sôi, sử dụng máy quay được lắp sẵn trên chảo và quay cho đến khi nào kẹo “tới” thì đổ ra mâm đã bôi dầu dừa để chống dính. Tiếp theo, dùng vải nhựa có bôi dầu dừa để ép kẹo vào khuôn, chờ nguội rồi cắt thành viên, sau đó gói từng viên kẹo riêng rồi cho vào bao bì tùy trọng lượng đặt hàng.

Ngày nay, người Bến Tre đã cải tiến làm thêm nhiều loại kẹo dừa có kết hợp với các nguyên liệu khác làm cho kẹo dừa Bến Tre ngày càng phong phú. Người ta đã cho thêm hương vị sầu riêng, đậu phộng và thậm chí cả ca cao vào kẹo. Đây là hiện tượng giao lưu và tiếp biến văn hóa trong nghệ thuật ẩm thực rất sáng tạo để đáp ứng sở thích của nhiều đối tượng khách hàng, để có thể mở rộng thị trường. Du khách đến Bến Tre thường mua kẹo về làm quà cho gia đình, người thân, bè bạn. Có thể nói kẹo dừa khá gắn bó với cuộc hành trình khám phá văn hóa, ẩm thực, du lịch ở Bến Tre.

Hiện tại Bến Tre có 151 cơ sở sản xuất kẹo dừa, gồm 15 công ty, 9 doanh nghiệp tư nhân, số còn lại là hộ cá thể, có khả năng sản xuất trên 30.000 tấn/năm. Cơ sở sản xuất tập trung chủ yếu trên địa bàn thị xã Bến Tre, huyện Mỏ Cày và Châu Thành, giải quyết việc làm cho trên một vạn lao động nghèo với thu nhập từ 700.000 - 1.000.000 đồng/tháng.


Từ nguồn nguyên liệu dừa rất phong phú của Bến Tre, cộng thêm tài khéo léo của người chế biến, người xứ dừa đã biết tăng thêm giá trị văn hóa, giá trị của lao động thủ công truyền thống vào sản phẩm để làm cho trái dừa không chỉ là nguồn nguyên liệu thô mà nó đã được nâng giá trị lên nhiều lần. Ở đây yếu tố văn hóa trong sản phẩm thủ công đã làm nên giá trị kinh tế, góp phần cải thiện và nâng cao đời sống cho người dân xứ dừa. Mặt khác, chính nhờ có sự phát triển kinh tế như vậy mà nghệ thuật thủ công truyền thống lại được trân trọng, gìn giữ và không ngừng phát triển.

Điều đáng mừng là các lò kẹo thủ công truyền thống danh tiếng như Bến Tre, Yến Hương, Thanh Long, Thiên Long, Tuyết Mai... đã không ngần ngại đầu tư bạc tỷ để đổi mới công nghệ sản xuất kẹo truyền thống, tạo nên nhiều mẫu mã, kiểu dáng ngày càng hấp dẫn khách hàng. Theo truyền thống sản xuất xưa nay các cơ sở sản xuất kẹo dừa luôn xem trọng chất lượng, chữ tín, không sử dụng chất bảo quản, đường hóa học và các chất cấm khác nhằm khẳng định thương hiệu của mình. Nhờ vậy kẹo dừa Bến Tre đã có mặt ở các thị trường trong cả nước và còn xuất khẩu sang nhiều quốc gia châu Á, châu Âu và châu Mỹ.

Một sự kiện như biểu hiện sự thành công lớn của ngành kẹo dừa Bến Tre trong năm 2002 là cùng một lúc bà Phạm Thị Tỏ - Giám đốc Công ty TNHH Đông Á đã nhận được 4 giải thưởng lớn tại Hội chợ triễn lãm hàng tiêu dùng được tổ chức tại Hà Nội vào tháng 11-2002. Trong 4 giải thưởng ấy, điều đáng nói là viên kẹo dừa Bến Tre lần đầu tiên được xếp vào danh mục các mặt hàng Việt Nam chất lượng cao. Giải thưởng ấy như là sự xác lập chỗ đứng, khẳng định về chất lượng của viên kẹo dừa Bến Tre trên thương trường trong, ngoài nước. Ngoài ra kẹo dừa hiệu Thiên Long cũng được nhận cúp vàng Thương hiệu vì sức khỏe cộng đồng do Cục Vệ sinh an toàn thực phẩm thuộc Bộ Y tế tặng tại hội chợ thành phố Cần Thơ Xuân Đinh Hợi 2007.


Nghề sản xuất kẹo ở Bến Tre cần được tiếp tục cải tiến về công nghệ, mẫu mã cũng như việc kết hợp với các nguyên phụ liệu khác, qua đó sẽ từng bước nâng dần chất lượng, cả về hình thức để kẹo dừa mãi mãi là niềm tự hào của người Bến Tre.

Bến Tre nước ngọt sông dài

Nơi chợ Mõ Cày có kẹo nổi danh

Kẹo Mõ Cày vừa thơm vừa béo

Gái Mõ Cày vừa khéo vừa ngoan




V- NHÓM THỰC HIỆN:
http://www.mediafire.com/?6ho77s2jt796jwj

Tập thể nhóm thực hiện blog
Mời Quí độc giả quan tâm và góp ý